Lịch sử hoạt động McDonnell F2H Banshee

Hải quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ

Vào ngày 9 tháng 8 năm 1949, Trung úy J. L. Fruin mất kiểm soát chiếc máy bay F2H-1 trong khi thực hiện thao diễn hàng không. Anh buộc phải phóng ra, trở thành phi công Hoa Kỳ đầu tiên sử dụng ghế phóng trong một tình huống khẩn cấp khi đang bay thực sự.

Tiếp theo sau Thế Chiến II, Hải quân và Không quân Hoa Kỳ liên can vào một cuộc tranh giành để xác định xem binh chủng nào sẽ nhận trách nhiệm bố trí các vũ khí nguyên tử. Không quân khoe khoang rằng chiếc máy bay ném bom mới B-36 Peacemaker có khả năng bay cao đến mức nó không thể bị tổn hại bởi việc đánh chặn của những máy bay tiêm kích. Tuy nhiên, vào tháng 8 năm 1949, một chiếc F2H-1 Hải quân Mỹ được sử dụng để chụp ảnh Washington DC từ độ cao 51.000 ft, dễ dàng xác nhận được nhờ phân tích ảnh chụp, thể hiện khả năng có thể hoạt động ở các độ cao vượt quá mức cần thiết có thể đánh chặn chiếc B-36.

Chiếc F2H-2 phục vụ trong Chiến tranh Triều Tiên với Lực lượng Đặc nhiệm 77 của Hải quân Mỹ và với Thủy quân Lục chiến Mỹ. Do tính năng bay tốt ở tầm cao, ban đầu nó tỏ ra có giá trị trong vai trò hộ tống các máy bay ném bom tầm xa của Không quân Hoa Kỳ. Khi chiến tranh tiếp diễn, các máy bay tiêm kích Hải quân và Thủy quân Lục chiến Mỹ chủ yếu được giao nhiệm vụ tấn công các mục tiêu mặt đất, bao gồm hỗ trợ gần trên không các lực lượng trên bộ và phá hủy các đường tiếp vận của quân đội Bắc Triều Tiên.[2] Không quân Bắc Triều Tiên hầu như bị tiêu diệt hoàn toàn trong những tuần lễ mở đầu của cuộc chiến tranh do lực lượng phối hợp của Mỹ và Không quân Viễn Đông (FEAF) của Anh Quốc, chủ yếu là do việc huấn luyện tốt hơn nhiều và kinh nghiệm chiến đấu trong Thế Chiến II của các phi công Mỹ và Khối Thịnh vượng chung. Từ lúc đó trở đi, lực lượng phối hợp Bắc Triều Tiên, Trung QuốcXô Viết không có khả năng mở các đường băng mới gần khu vực chiến sự ở Nam Triều Tiên vì việc không kích liên tục của Không quân Viễn Đông, buộc họ phải cất cánh từ những sân bay tại Trung Quốc. Banshee và các máy bay tiêm kích Hải quân khác ít bị phơi ra trước hỏa lực của máy bay địch vì chúng hoạt động bên ngoài tầm bay của máy bay địch cất cánh từ Trung Quốc.[2] Các phi vụ không chiến, như tuần tra tại khu vực sông Áp Lục, chủ yếu được giao cho những chiếc F-86 Sabre.[2] Kết quả là, Banshee không ghi được chiến công nào mà cũng không bị thiệt hại do không chiến, cho dù có ba chiếc F2H-2 bị mất do hỏa lực phòng không.

Chiếc F2H-2 có liên quan đến một tai nạn đáng kể của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Triều Tiên. Vào ngày 16 tháng 9 năm 1951, một chiếc máy bay F2H-2 bị hư hại trong chiến đấu quay trở về tàu sân bay USS Essex (CV-9) đã bị hụt mất lưới thu hồi và đâm vào nhiều chiếc máy bay F9F Panther và F2H Banshee đang đậu ở phần trước của sàn đáp tàu sân bay. Vụ đâm và đám cháy sau đó giết chết bảy thủy thủ và phá hủy bốn máy bay. Tai nạn này đóng vai trò lớn trong quyết định sau đó của Hải quân Hoa Kỳ trang bị sàn đáp chéo góc cho mọi tàu sân bay trong tương lai để việc hạ cánh máy bay an toàn hơn.

Chiếc F2H-2P cũng góp phần lớn vào Chiến tranh Triều Tiên, đặc biệt là phục vụ trong Thủy quân Lục chiến. Trong thời gian chiến tranh, tên lửa đất đối không chính xác chưa được phát triển, đa số máy bay đối phương chưa được trang bị radar, và tốc độ của những chiếc máy bay phản lực mới làm cho những khẩu súng phòng không trở thành lạc hậu. Các chiến thuật phòng không chủ yếu dựa vào khả năng nhìn thấy đối phương, và các chỉ huy Mỹ nhanh chóng khám phá rằng một chiếc máy bay F2H-2P đơn độc bay cao hầu như không thể bị lực lượng mặt đất phát hiện và không thể bị bắn trúng. Chiếc máy bay nhanh chóng được yêu cầu nhiều trong các phi vụ chụp ảnh chiến trường quý giá. Thậm chí F2H-2P còn được các máy bay tiêm kích Không quân hộ tống khi hoạt động tại các khu vực thường gặp máy bay tiêm kích địch. Cho dù được bố trí sử dụng thường xuyên trong suốt cuộc chiến, chỉ có hai chiếc F2H-2P bị mất do hỏa lực phòng không điều khiển bằng radar, và không có chiếc nào bị mất do không chiến.

Vào cuối thập niên 1940, Hải quân Mỹ đã từ chối khái niệm thiết kế kiểu cánh xuôi mới lạ, lo sợ rằng việc điều khiển khó khăn ở tốc độ thấp của những chiếc máy bay cánh xuôi đầu tiên làm cho nó không an toàn khi sử dụng trên những tàu sân bay. Không may thay, Hải quân Mỹ đã không nhận thức được đầy đủ điều này sẽ gây hại đến tính năng những chiếc máy bay phản lực mới của họ. Hậu quả của kiểu cánh không xuôi (cánh ngang) làm cho chiếc Banshee chậm hơn gần 161 km/h (100 mph) so với những chiếc máy bay tiêm kích phản lực mới của Xô Viết như chiếc Mikoyan-Gurevich MiG-15, một sự bất lợi nghiêm trọng trong không chiến. Những thử nghiệm tiếp nối đã chứng minh rằng máy bay cánh xuôi có thể bay an toàn ở tốc độ thấp, và việc phát triển những chiếc máy bay tiêm kích cánh xuôi mới cho Hải quân Mỹ được bắt đầu. Hải quân Mỹ bố trí những chiếc F2H-3 và F2H-4 mới trang bị radar cho mục đích phòng thủ hạm đội trong mọi thời tiết sau khi kết thúc Chiến tranh Triều Tiên, nhưng chỉ là giải pháp lấp chỗ tạm thời cho đến khi những chiếc F9F Cougar, F3H Demon, và F4D Skyray nhanh hơn nhiều có thể bố trí với số lượng đáng kể. Những phiên bản sau này của chiếc Banshee chỉ phục vụ vài năm ở tiền tuyến và không tham gia chiến sự. Tương tự, chiếc F2H-2P được thay thế bằng phiên bản F9F-8P (sau này là RF-9J) của chiếc F9F Cougar và phiên bản F8U-1P (sau này là RF-8A) của chiếc F8U Crusader khi những máy bay nhanh hơn này trở nên sẵn sàng.

Hải quân Hoàng gia Canada

Vào năm 1951, Hải quân Hoàng gia Canada bày tỏ ý định thay thế những chiếc Hawker Sea Fury đã lạc hậu bằng chiếc Banshee, dự trù khoảng kinh phí 40 triệu Đô la Mỹ cho 60 máy bay. Không may là, do cuộc tranh luận tài chính tại Nội các Canada, việc mua bán đã không được chấp thuận mãi cho đến khi việc sản xuất chiếc Banshee đã kết thúc vào năm 1953. Hải quân Hoàng gia Canada buộc phải sở hữu những chiếc máy bay cũ đã qua sử dụng của Hải quân Mỹ, trị giá 25 triệu Đô la cho 39 máy bay. Những chiếc máy bay được giao hàng từ năm 1955 đến năm 1958 và hoạt động trên tàu sân bay HMCS Bonaventure (CVL-22) hoặc như những máy bay tiêm kích đánh chặn của NORAD từ những căn cứ trên đất liền. Trong khi các phi công Canada thực hiện thường xuyên, phi công Banshee Mỹ lại thường từ chối, cho dù chỉ là thử, hạ cánh trên tàu sân bay HMCS Bonaventure trong các chiến dịch phối hợp chung vì kích thước nhỏ của nó.

Nhằm cải thiện khả năng của chiếc Banshee như một máy bay tiêm kích đánh chặn tầm xa, Hải quân Hoàng gia Canada đã trang bị cho chiếc máy bay kiểu tên lửa AIM-9 Sidewinder. Hải quân Hoàng gia Canada thực hiện các cuộc thử nghiệm tên lửa Sidewinder trên biển vào tháng 11 năm 1959, trong đó nhiều chiếc máy bay mục tiêu giả được điều khiển từ xa đã bị bắn hạ.[3] Sau khi những chiếc F2H-3 nghỉ hưu, quân đội Canada không bố trí một máy bay nào khác trang bị tên lửa Sidewinder cho đến khi chiếc CF-18 Hornet được đưa ra hoạt động vào năm 1982.

Chiếc Banshee, mặc dù ban đầu được các phi công Canada ưa thích vì phẩm chất bay của nó, bắt đầu chịu các sự cố khi phục vụ trong Hải quân Hoàng gia Canada. Hai chiếc Banshee cùng phi công của nó bị mất sau khi sự cố hỏng cấu trúc cơ cấu gập cánh trong khi bay, và một chiếc Banshee bị hỏng phanh trên chiếc tàu sân bay Bonaventure, lăn khỏi sàn đáp rơi xuống biển kéo theo phi công trong buồng lái.[4] Hải quân Hoàng gia Canada mất đến 12 trong tổng số 39 chiếc Banshee ban đầu do tai nạn, một tỉ lệ tổn thất lên đến trên 30%.[3]

Việc sử dụng những chiếc Banshee giảm dần khi Hải quân Hoàng gia Canada chuyển hướng tập trung ưu tiên cho chiến tranh chống tàu ngầm. Tàu sân bay Bonaventure trở nên quá nhỏ để chứa nhiều chiếc Banshee trong khi cần phải mang theo một số lượng máy bay CS2F Trackers đủ để tiến hành tuần tra chống tàu ngầm liên tục, nên chiếc tàu sân bay thường rời cảng mà không mang theo những chiếc Banshee.[4] Hơn nữa, giới quân sự Canada chịu sức ép chính trị ngày càng gia tăng phải cắt giảm ngân sách, và những chiếc Banshee đang lạc hậu trở nên đắt đỏ để duy trì do những năm tháng hoạt động nhọc nhằn trên tàu sân bay và thời tiết Bắc Đại Tây Dương khắc nghiệt ảnh hưởng. Chiếc Banshee cuối cùng của Hải quân Hoàng gia Canada nghỉ hưu vào tháng 9 năm 1962 mà không được thay thế. Nó là những máy bay tiêm kích phản lực duy nhất hoạt động trên tàu sân bay được Hải quân Hoàng gia Canada đưa vào hoạt động. Ngoại trừ ba chiếc được bảo tồn tại các viện bảo tàng, những chiếc Banshee còn lại bị cắt tháo dỡ hay bị tiêu diệt do dùng làm mục tiêu thực hành.[3]

Banshee là máy bay chủ yếu của đội thao diễn hàng không Canada Grey Ghosts vốn chỉ hoạt động trong thời gian ngắn. Tên của đội là một cách chơi chữ ý nghĩa của tên Banshee và màu sắc của những máy bay Hải quân Hoàng gia Canada. Đội ngũ máy bay RCN's Banshee Hải quân Hoàng gia Canada quá nhỏ bé để có thể duy trì một nhóm máy bay đặc biệt dành cho thao diễn hàng không, nên đội chỉ đơn giản bay những máy bay Banshee đang hoạt động có được vào mỗi đợt thao diễn.